Nghiên cứu – Kinhdoanhcongnghe.com https://kinhdoanhcongnghe.com Cập nhật tin tức, Phân tích thị trường, Khám phá cơ hội và thách thức trong kỷ nguyên số! Sat, 20 Sep 2025 10:10:07 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/kinhdoanhcongnghe/2025/08/kinhdoanh.svg Nghiên cứu – Kinhdoanhcongnghe.com https://kinhdoanhcongnghe.com 32 32 Não bộ tập trung nhìn vào đâu khi đánh giá người khác? https://kinhdoanhcongnghe.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-danh-gia-nguoi-khac/ Sat, 20 Sep 2025 10:10:05 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/nao-bo-tap-trung-nhin-vao-dau-khi-danh-gia-nguoi-khac/

Một nghiên cứu mới đã xác định được các mẫu hình視覺 mà con người sử dụng khi đánh giá cơ thể, cho thấy sự chú ý tập trung nhiều nhất vào ngực và thân mình. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ theo dõi mắt để chỉ ra rằng các mẫu nhìn này bị ảnh hưởng bởi chỉ số khối cơ thể và đánh giá cụ thể đang được thực hiện.

Những phát hiện này vừa được công bố trong Behavioral Sciences. Trong khi các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng con người hình thành ấn tượng nhanh chóng và nhất quán dựa trên ngoại hình, bao gồm hình dạng và kích thước cơ thể, nhưng vẫn còn tương đối ít được biết về nơi con người nhìn trong quá trình đánh giá này.

Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều tập trung vào sự hấp dẫn, thường sử dụng ảnh hoặc mô hình giới tính đơn. Đội ngũ nghiên cứu mới này đã đặt mục tiêu khám phá cách chỉ số khối cơ thể ảnh hưởng không chỉ đến đánh giá của con người về sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, mà còn cả mẫu hình視覺 của họ khi đưa ra những đánh giá này.

Tác giả nghiên cứu Edward Morrison, một giảng viên cao cấp tại Đại học Portsmouth, cho biết: ‘Nghiên cứu này được thực hiện với sinh viên đại học và tác giả cùng nghiên cứu, Marianne Lanigan. Cô ấy quan tâm đến việc sử dụng theo dõi mắt cho dự án nghiên cứu đại học của mình, và chúng tôi đã kết hợp điều này với sự quan tâm của tôi trong nhận thức xã hội – đánh giá chúng tôi đưa ra về người khác.’

Có rất nhiều nghiên cứu về cách chúng ta đánh giá người khác từ vẻ ngoài, bao gồm cả cách họ gầy hoặc béo, nhưng có ít nghiên cứu về cách chuyển động mắt của con người khác nhau khi nhìn vào những cơ thể này, và không có gì về chuyển động mắt khi đưa ra các đánh giá khác nhau về cùng một cơ thể.

Để điều tra vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã tuyển dụng 32 người tham gia, chủ yếu là sinh viên tâm lý học đại học, với độ tuổi trung bình khoảng 20 tuổi. Hầu hết đều là nữ và xác định là dị tính hoặc song tính.

Nghiên cứu được thực hiện trong một môi trường phòng thí nghiệm được kiểm soát, nơi những người tham gia xem hình ảnh kỹ thuật số của các mô hình nam và nữ khác nhau có chỉ số khối cơ thể một cách có hệ thống.

Các mô hình được tạo ra bằng công cụ trực tuyến, được tiêu chuẩn hóa về chiều cao nhưng khác nhau về trọng lượng cơ thể để mô phỏng các hạng mục gầy, cân nặng thấp, cân nặng cao, thừa cân và béo phì.

Những người tham gia được yêu cầu đánh giá mỗi mô hình trên ba chiều – sự hấp dẫn, sức khỏe và tuổi trẻ, sử dụng thang điểm Likert sáu điểm.

Trong khi thực hiện điều này, thiết bị theo dõi mắt đã ghi lại nơi và thời gian họ nhìn vào các bộ phận khác nhau của cơ thể, bao gồm đầu, ngực, eo, đùi và chân dưới.

Mỗi hình ảnh được hiển thị trong năm giây, và những người tham gia hoàn thành một loạt các thử nghiệm, đầu tiên là đánh giá tất cả năm mô hình nữ về sự hấp dẫn, sau đó là sức khỏe và tuổi trẻ, và lặp lại quy trình tương tự cho các mô hình nam.

Thứ tự trình bày hình ảnh được cân bằng để giảm thiểu sai sót.

Các nhà nghiên cứu đã phân tích cả dữ liệu theo dõi mắt và điểm đánh giá.

Họ đã tìm thấy rằng sự chú ý視覺 không được phân bố đều trên cơ thể.

Ngực và eo nhận được nhiều sự chú ý nhất và thời gian xem lâu nhất, trong khi đùi và chân dưới nhận được ít nhất.

Thú vị là, những người tham gia có xu hướng nhìn lâu hơn và thường xuyên hơn vào các mô hình nam hơn là mô hình nữ.

Mẫu hình này có thể đã bị ảnh hưởng bởi sự thống trị của phụ nữ dị tính trong nhóm tham gia.

Bộ phận cơ thể nhận được nhiều sự chú ý đã thay đổi theo kích thước cơ thể.

Ở chỉ số khối cơ thể thấp hơn, con người dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào eo, trong khi ở trọng lượng cao hơn, cái nhìn của họ chuyển hướng nhiều hơn đến ngực.

Sự chú ý đến đầu tăng lên khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, có thể phản ánh mối liên hệ giữa cân nặng và tuổi tác.

Những thay đổi này xảy ra ngay cả khi những người tham gia không được yêu cầu một cách có ý thức để đánh giá các vùng cơ thể cụ thể.

Các loại đánh giá xã hội khác nhau cũng tinh vi ảnh hưởng đến hành vi nhìn.

Khi những người tham gia đánh giá tuổi trẻ, họ có xu hướng nhìn nhiều hơn vào đầu, so với khi họ đánh giá sự hấp dẫn hoặc sức khỏe.

Điều này có ý nghĩa khi khuôn mặt mang lại nhiều tín hiệu視覺 liên quan đến tuổi tác.

Điểm đánh giá cho sức khỏe dẫn đến tập trung nhiều hơn vào ngực và phần eo, khu vực liên quan đến phân phối mỡ nhìn thấy và cơ bắp.

Khi nói đến điểm đánh giá thực tế, những người tham gia đánh giá mức độ cân nặng khỏe mạnh thấp nhất là hấp dẫn và khỏe mạnh nhất.

Điểm đánh giá tuổi trẻ, trái lại, đạt đỉnh cao nhất đối với cơ thể nhẹ nhất – những cơ thể được phân loại là gầy.

Điều này có thể phản ánh mối liên hệ văn hóa và tiến hóa giữa sự gầy, tuổi trẻ và tiềm năng sinh sản.

Khi chỉ số khối cơ thể tăng lên, điểm đánh giá tuổi trẻ giảm dần cho cả mô hình nam và nữ.

Cũng có một số khác biệt trong cách những người tham gia đánh giá cơ thể nam và nữ.

Mô hình nam gầy được đánh giá thấp hơn đáng kể về sự hấp dẫn và sức khỏe so với mô hình nữ gầy.

Điều này có thể phản ánh cách cơ bắp thấp, thường đi kèm với cân nặng thấp, bị nhìn nhận tiêu cực ở nam giới.

Đối với mô hình nữ, ngay cả những mô hình gần ngưỡng cân nặng khỏe mạnh vẫn được đánh giá cao về sự hấp dẫn và tuổi trẻ.

Điều này phù hợp với lý tưởng văn hóa có xu hướng ưu tiên sự gầy ở phụ nữมาก hơn ở nam giới.

Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy các tương tác giữa giới tính của mô hình, loại đánh giá và chỉ số khối cơ thể.

Ví dụ, mô hình nam khỏe mạnh nhất có chỉ số khối cơ thể cao hơn một chút so với mô hình hấp dẫn nhất, cho thấy rằng những người tham gia có thể liên kết một số cơ bắp với sức khỏe.

Điều này trái ngược với các nghiên cứu trước đây cho thấy con người thường thích cơ thể gầy hơn ngay cả khi chúng trông kém khỏe mạnh.

Sự khác biệt có thể do sự khác biệt văn hóa, vì các nghiên cứu trước đây cho thấy mô hình này sử dụng mẫu từ dân số châu Á, trong khi nghiên cứu hiện tại chủ yếu liên quan đến người tham gia gốc châu Âu.

Mặc dù nghiên cứu cung cấp cái nhìn sâu sắc mới về cách con người sử dụng tín hiệu視覺 để đánh giá người khác, nhưng nó vẫn có một số hạn chế.

Kích thước mẫu nhỏ và thiên vị về giới tính và độ tuổi, điều này có thể hạn chế khả năng áp dụng của kết quả cho các dân số rộng lớn hơn.

Kết quả có thể khác nếu chúng tôi có đủ người xem nam để so sánh, vì các nghiên cứu khác cho thấy.

Các kích thích của chúng tôi cũng là mô hình được tạo ra bởi máy tính mà không có khuôn mặt hoặc quần áo (nhưng không có cơ quan sinh dục).

Điều này là để chúng tôi có thể kiểm soát kích thước cơ thể một cách thử nghiệm trong khi giữ mọi thứ khác không đổi.

Tuy nhiên, chúng tôi có thể nhìn vào mô hình được tạo ra bởi máy tính khác với người thực.

Các nhà nghiên cứu đề xuất rằng các nghiên cứu trong tương lai nên bao gồm hỗn hợp người tham gia cân bằng hơn về giới tính và độ tuổi.

Họ cũng đề xuất khám phá cách hình ảnh cơ thể và kinh nghiệm của mọi người có thể định hình đánh giá của họ về người khác.

Các nghiên cứu trong môi trường tự nhiên hơn, chẳng hạn như sử dụng thiết bị theo dõi mắt có thể đeo trong khi quan sát mọi người ở nơi công cộng, cũng có thể giúp xác nhận liệu các mẫu quan sát trong phòng thí nghiệm có phản ánh hành vi trong thế giới thực hay không.

pss-europe

]]>
Một nghiên cứu cho thấy 1/3 người Mỹ đổi xe ô tô mới đều âm vốn https://kinhdoanhcongnghe.com/mot-nghien-cuu-cho-thay-1-3-nguoi-my-doi-xe-o-to-moi-deu-am-von/ Thu, 18 Sep 2025 02:13:39 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/mot-nghien-cuu-cho-thay-1-3-nguoi-my-doi-xe-o-to-moi-deu-am-von/

Một nghiên cứu gần đây của Công ty nghiên cứu thị trường Edmunds đã chỉ ra rằng tình trạng “âm vốn” khi đổi xe ô tô tại Mỹ đang gia tăng nhanh chóng. Trong quý II năm nay, khoảng 26,6% số xe được đổi khi mua xe mới có giá trị thấp hơn số tiền chủ xe còn nợ trong khoản vay mua xe trước đó. Đây là mức cao nhất trong bốn năm trở lại đây và tăng so với mức 23,9% cùng kỳ năm ngoái.

Volvo bị kiện vì gây ra tổn thương thính lực vĩnh viễn cho một người đàn ông
Volvo bị kiện vì gây ra tổn thương thính lực vĩnh viễn cho một người đàn ông

Mức âm vốn trung bình của người dùng khi đổi xe là 6.754 USD (176 triệu đồng), cao hơn 499 USD (13 triệu đồng) so với cùng kỳ năm 2023. Đáng chú ý, 32,6% người đổi xe đang âm vốn từ 5.000 đến 10.000 USD (130 đến 260 triệu đồng), 23,4% âm hơn 10.000 USD (260 triệu đồng), và 7,7% trong số đó còn nợ tới hơn 15.000 USD (393 triệu đồng) trên chiếc xe cũ họ đem đi đổi.

Hatchback đô thị chạy điện Honda N-One e: chính thức ra mắt
Hatchback đô thị chạy điện Honda N-One e: chính thức ra mắt

Nhiều người chọn cách chuyển phần âm vốn vào khoản vay mua xe mới, khiến gánh nặng tài chính càng lớn. Nhóm người vay kiểu này hiện đang phải chi trung bình 915 USD/tháng (24 triệu đồng/tháng), cao hơn 159 USD (4 triệu đồng) so với mức trung bình toàn ngành là 756 USD/tháng (19 triệu đồng/tháng) và là mức cao kỷ lục từ trước đến nay đối với nhóm này.

Honda HR-V 2025 bản 1.5 Turbo V ra mắt với thiết kế thể thao, trang bị phong phú
Honda HR-V 2025 bản 1.5 Turbo V ra mắt với thiết kế thể thao, trang bị phong phú

Sự thiếu kiến thức tài chính được cho là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Chuyên gia phân tích Joseph Yoon của Edmunds khuyến nghị người tiêu dùng nên kiểm tra số tiền còn nợ trong khoản vay mua xe hiện tại và so sánh với giá trị thực tế của xe khi bán hoặc đổi, nhằm xác định xem mình có đang bị “âm vốn” hay không.

Ông cũng khuyên rằng giữ lại chiếc xe hiện tại và tiếp tục thanh toán đều đặn, bảo dưỡng đúng lịch có thể là lựa chọn khôn ngoan nhất. Điều này có thể giúp người tiêu dùng tránh được tình trạng âm vốn và giảm thiểu gánh nặng tài chính.

]]>
Chuyên gia trong nước và quốc tế họp bàn về không gian thông minh tại Hà Nội https://kinhdoanhcongnghe.com/chuyen-gia-trong-nuoc-va-quoc-te-hop-ban-ve-khong-gian-thong-minh-tai-ha-noi/ Fri, 05 Sep 2025 20:39:46 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/chuyen-gia-trong-nuoc-va-quoc-te-hop-ban-ve-khong-gian-thong-minh-tai-ha-noi/

Ngày 29-08, tại Hà Nội, Hội thảo quốc tế về ‘Truy cập không gian thông minh và ứng dụng’ đã diễn ra thành công, đánh dấu sự tham gia của gần 50 trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu từ trong và ngoài nước. Sự kiện quy mô này là cơ hội để các chuyên gia và đại biểu đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau tụ họp, trao đổi và thảo luận về các công nghệ, ứng dụng mới nhất cũng như những vấn đề liên quan trong lĩnh vực không gian thông minh.

Theo đó, hội thảo có mục tiêu cốt lõi là xây dựng một diễn đàn mở cho các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong lĩnh vực không gian thông minh. Tại đây, các bên tham gia có thể chia sẻ kinh nghiệm, trình bày kết quả nghiên cứu, cũng như các ứng dụng thực tiễn mà họ đã đạt được. Qua đó, các đại biểu có cơ hội trực tiếp trao đổi ý tưởng, tìm kiếm cơ hội hợp tác và thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược.

Mục tiêu dài hạn của hội thảo là nhằm thúc đẩy sự phát triển của công nghệ không gian thông minh trong tương lai. Bằng cách kết nối các bên tham gia từ nhiều góc độ và lĩnh vực khác nhau, sự kiện không chỉ mang lại lợi ích trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết về công nghệ không gian thông minh mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới dựa trên công nghệ tiên tiến.

Sự thành công của hội thảo không chỉ phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng đối với lĩnh vực không gian thông minh mà còn cho thấy tiềm năng hợp tác và phát triển trong lĩnh vực đầy hứa hẹn này. Với những kết quả và kinh nghiệm được chia sẻ, các đại biểu có thể mong đợi những bước tiến mới trong việc ứng dụng công nghệ không gian thông minh vào thực tiễn, từ đó giải quyết các thách thức và nắm bắt các cơ hội trong tương lai.

]]>
Đại học Quốc gia Hà Nội đặt mục tiêu lọt top đại học hàng đầu thế giới https://kinhdoanhcongnghe.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-dat-muc-tieu-lot-top-dai-hoc-hang-dau-the-gioi/ Tue, 02 Sep 2025 16:10:23 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/dai-hoc-quoc-gia-ha-noi-dat-muc-tieu-lot-top-dai-hoc-hang-dau-the-gioi/

Trong nhiệm kỳ vừa qua, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và sự điều hành quyết liệt của Ban Giám đốc. Cơ sở đào tạo này đã thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tạo tiền đề thúc đẩy phát triển và tạo lập vị thế mới của cơ sở đào tạo, nghiên cứu hàng đầu cả nước, vươn tầm quốc tế.

Một trong những thành quả đáng ghi nhận là sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ ĐHQGHN, xây dựng môi trường làm việc dân chủ, hợp tác, kiến tạo nền tảng để phát triển bền vững. Công tác xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được chú trọng, với tỷ lệ chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ trung bình hằng năm đạt hơn 97%; đảng viên đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt 98%/năm. Toàn Đảng bộ ĐHQGHN đã kết nạp 961 đảng viên, trong đó có 558 đảng viên là sinh viên và 14 đảng viên là học sinh.

ĐHQGHN cũng đã triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW, sắp xếp tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, giảm từ 36 xuống 25 đầu mối. Cơ chế tự chủ và tái cấu trúc bộ máy theo hướng tinh gọn gắn với nâng cấp, phát triển một số đơn vị đã được đẩy mạnh. ĐHQGHN đã trao quyền tự chủ cao, gắn với trách nhiệm giải trình cho các đơn vị, tập trung quản trị chiến lược và chất lượng.

Chuyển đổi số và đổi mới quản trị tại ĐHQGHN có bước tiến rõ nét, với hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý được hiện đại hóa. Đến cuối năm 2024, 95% học liệu được số hóa; dữ liệu cán bộ, sinh viên số hóa đạt 100%; 20% môn học mỗi chương trình áp dụng giảng dạy trực tuyến.

Về đào tạo, ĐHQGHN đã điều chỉnh quy mô đào tạo đại học lên hơn 60.000 người học, vượt 26,5% so với chỉ tiêu đề ra. Các chương trình đào tạo được điều chỉnh linh hoạt nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Quốc tế hóa là trụ cột chiến lược trong đào tạo, ĐHQGHN đang tái cấu trúc toàn diện chương trình, phương pháp giảng dạy và mô hình tổ chức theo chuẩn quốc tế.

Hoạt động khoa học và công nghệ của ĐHQGHN đạt những thành tựu đáng ghi nhận, bước đầu áp dụng quy trình tin học hóa, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống các phần mềm quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Nguồn lực tài chính đã và đang đầu tư cho nhiệm kỳ tới trong lĩnh vực khoa học công nghệ tăng đột biến, ước đạt hơn 3.520 tỷ đồng.

Mạng lưới khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của ĐHQGHN được cấu trúc lại với 15 chương trình nghiên cứu; 8 lĩnh vực công nghệ mũi nhọn ưu tiên. Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo gắn với phát triển các đơn vị nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao.

Nguồn lực tài chính, hạ tầng cơ sở vật chất và hạ tầng số đạt được nhiều thành tựu. Xây dựng Khu đô thị ĐHQGHN tại Hòa Lạc và đến nay hầu hết các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc đã chính thức chuyển trụ sở làm việc tới Hòa Lạc là nhiệm vụ lớn và được xác định là khâu đột phá của Đảng bộ ĐHQGHN trong nhiệm kỳ vừa qua.

Với sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và sự hỗ trợ, kiến tạo của các bộ, ngành cùng nội lực mạnh mẽ từ đội ngũ giảng viên, nhà khoa học và sinh viên, ĐHQGHN đang trên hành trình phát triển đột phá trở thành biểu tượng của đổi mới sáng tạo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Nhiệm kỳ 2025-2030, Đảng bộ ĐHQGHN đặt mục tiêu trở thành “Đại học nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong nhóm các đại học hàng đầu thế giới” vào năm 2030. Để đạt được điều này, ĐHQGHN tiếp tục đẩy mạnh phân cấp trong quản trị đại học, tài chính và cơ sở vật chất, đồng thời bảo đảm liên thông nhân lực và chia sẻ nguồn lực.

Mới đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định về Đại học Quốc gia, tạo ra một cơ chế mới để phát huy hết tiềm lực thực hiện các sứ mệnh mới của kỷ nguyên vươn mình.

]]>
Phát triển khoa học công nghệ: Gỡ vướng cho viện nghiên cứu và trường đại học https://kinhdoanhcongnghe.com/phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-go-vuong-cho-vien-nghien-cuu-va-truong-dai-hoc/ Sat, 23 Aug 2025 19:37:51 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-go-vuong-cho-vien-nghien-cuu-va-truong-dai-hoc/

Phát triển các viện nghiên cứu và trường đại học thành những chủ thể nghiên cứu mạnh đang là mục tiêu quan trọng được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi các viện nghiên cứu và trường đại học phải đặt chất lượng, chiều sâu, sự liên kết và tính khả thi của các đề tài nghiên cứu lên hàng đầu. Ngoài ra, việc phát triển mô hình hợp tác chặt chẽ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và địa phương cũng là yếu tố then chốt nhằm tạo ra một chuỗi giá trị khép kín từ nghiên cứu đến thương mại hóa.

Định hướng hình thành các nhóm nghiên cứu lớn, liên ngành, nhằm theo đuổi các mục tiêu nghiên cứu lớn hơn, có khả năng ứng dụng thực tiễn cao hơn. (Ảnh minh hoạ: Cổng thông tin điện tử Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)
Định hướng hình thành các nhóm nghiên cứu lớn, liên ngành, nhằm theo đuổi các mục tiêu nghiên cứu lớn hơn, có khả năng ứng dụng thực tiễn cao hơn. (Ảnh minh hoạ: Cổng thông tin điện tử Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam)

Các chuyên gia nhận định rằng một trong những khó khăn lớn hiện nay là vấn đề tài chính. Trong bối cảnh ngân sách dành cho khoa học còn hạn chế, việc tập trung nguồn lực cho nghiên cứu ứng dụng mang tính liên ngành và đa giai đoạn đang là một thách thức lớn. Hiện nhiều nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức công bố bài báo quốc tế, báo cáo hội nghị hoặc tham gia các cuộc thi khoa học, mà chưa thể tiến tới giai đoạn chuyển giao công nghệ hoặc sản xuất thử nghiệm.

Để tháo gỡ khó khăn này, các viện nghiên cứu và trường đại học cần có cơ chế tài chính linh hoạt và hấp dẫn hơn. Ví dụ, việc thành lập quỹ hỗ trợ riêng cho các giai đoạn chuyển tiếp từ kết quả nghiên cứu đến sản phẩm thử nghiệm, từ phòng thí nghiệm đến quy mô sản xuất là hết sức cần thiết. Các sản phẩm nghiên cứu có tiềm năng ứng dụng cao nên được ươm tạo trong các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, nơi tập hợp các nhà khoa học, nhà đầu tư và chuyên gia thị trường.

Bên cạnh đó, cần thiết phải có cơ chế rõ ràng để tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ nghiên cứu khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ. Điều này giúp họ yên tâm cống hiến và phát triển sự nghiệp trong nước. Đồng thời, việc thiết lập hệ sinh thái kết nối ba nhà: nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng. Điều này tạo điều kiện để các sản phẩm nghiên cứu được đưa vào thực tiễn một cách hiệu quả, đóng góp trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội.

Với định hướng rõ ràng từ Nghị quyết 57, cùng với sự quan tâm và đầu tư đúng mức của Nhà nước và sự vào cuộc đồng bộ của các bên liên quan, nền khoa học công nghệ Việt Nam có thể sẽ trải qua một bước chuyển mình mạnh mẽ. Từng bước, hệ sinh thái nghiên cứu, ứng dụng và thương mại hóa bền vững sẽ được hình thành, trong đó các viện nghiên cứu và trường đại học thực sự giữ vai trò nòng cốt.

]]>
Vì sao con cả dễ thành lãnh đạo hơn em út? https://kinhdoanhcongnghe.com/vi-sao-con-ca-de-thanh-lanh-dao-hon-em-ut/ Wed, 13 Aug 2025 06:11:22 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/vi-sao-con-ca-de-thanh-lanh-dao-hon-em-ut/

Nhà nghiên cứu Frank J. Sulloway từ Đại học Harvard đã thực hiện một nghiên cứu sâu rộng về mối liên hệ giữa thứ tự sinh và đặc điểm tính cách của hàng nghìn người. Kết quả cho thấy, những người con cả trong gia đình có xu hướng cầu toàn, có tổ chức, thích kiểm soát và nghiêm túc hơn so với các em út. Những đặc điểm này thường thấy ở các nhà lãnh đạo.

Theo Sulloway, việc trở thành con cả thường đi kèm với trách nhiệm và kỳ vọng lớn hơn từ bố mẹ. Điều này đã giúp họ hình thành lối sống có trách nhiệm, tuân thủ quy tắc và có khả năng kiểm soát bản thân tốt hơn từ sớm. Khi trưởng thành, họ có xu hướng đảm nhận các vị trí lãnh đạo trong công việc.

Một số nghiên cứu tiếp theo đã củng cố quan điểm của Sulloway. Khảo sát của CareerBuilder (Mỹ) chỉ ra rằng con cả chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm làm quản lý, điều hành. Tại Anh, một cuộc khảo sát của YouGov cũng ghi nhận tỷ lệ người tự mô tả bản thân là ‘nghiêm túc, có định hướng rõ ràng’ cao nhất rơi vào nhóm con đầu lòng.

Nhiều người thành công trong giới công nghệ và chính trị cũng là con cả, chẳng hạn như Jeff Bezos – nhà sáng lập Amazon, Elon Musk – CEO Tesla và SpaceX, và Angela Merkel – cựu Thủ tướng Đức.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng cảnh báo không nên tuyệt đối hóa vai trò của thứ tự sinh. TS Kevin Leman, nhà tâm lý học, cho rằng cách bố mẹ đối xử và môi trường giáo dục mới định hình tính cách một cách rõ ràng nhất.

Vì thế, dù là con cả hay con út, điều quan trọng không phải là bạn sinh thứ mấy, mà là bạn đã lớn lên như thế nào.

]]>
Sinh viên Công nghệ sinh học cần chuẩn bị gì để có việc làm hấp dẫn? https://kinhdoanhcongnghe.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-hap-dan/ Mon, 11 Aug 2025 19:43:16 +0000 https://kinhdoanhcongnghe.com/sinh-vien-cong-nghe-sinh-hoc-can-chuan-bi-gi-de-co-viec-lam-hap-dan/

Ngành Công nghệ sinh học đang nổi lên như một lĩnh vực đầy hứa hẹn và đột phá trong thế kỷ 21, với ứng dụng rộng rãi trong các ngành như dược, nông nghiệp và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nhiều sinh viên và người lao động trong ngành này thường lo lắng về khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm hoặc phải làm trái ngành.

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT
Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi người học phải có nền tảng học thuật vững chắc, tư duy khoa học sắc bén và khả năng đọc hiểu, tổng hợp và vận dụng kiến thức linh hoạt. Đặc biệt, kỹ năng thực hành trong phòng thí nghiệm, sử dụng thành thạo các thiết bị và phần mềm số, khai thác dữ liệu lớn, nắm vững tin sinh học, lập trình cơ bản và ngoại ngữ chuyên ngành là những yếu tố không thể thiếu để hội nhập tri thức toàn cầu.

Thực tế cho thấy nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ sinh học còn yếu về kỹ năng thực hành, sử dụng công nghệ số và ngoại ngữ, dẫn đến khó đáp ứng ngay các yêu cầu khắt khe của doanh nghiệp hay viện nghiên cứu hiện đại.

ThS Dương Nhật Linh, giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Trường Đại học Mở TPHCM, cho rằng quan niệm về khó xin việc trong ngành Công nghệ sinh học cần được nhìn nhận lại một cách toàn diện và thấu đáo. Công nghệ sinh học là ngành đặc thù với tính liên ngành cao, yêu cầu nhân lực không chỉ am hiểu về sinh học, mà còn phải hội tụ tri thức từ nhiều lĩnh vực như công nghệ thông tin, hóa học, tự động hóa và quản lý chất lượng.

ThS Linh khuyến nghị sinh viên ngành Công nghệ sinh học cần chủ động trau dồi kiến thức chuyên sâu, ngoại ngữ, kỹ năng số và trải nghiệm liên ngành. Công nghệ sinh học đang ‘khát’ nhân lực chất lượng cao, những người linh hoạt, sáng tạo và đa năng. Chỉ cần chủ động và sẵn sàng đổi mới, sinh viên ngành Công nghệ sinh học có thể tìm được công việc phù hợp với năng lực.

Về phía doanh nghiệp, ông Đinh Xuân Tùng, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường Gia Định, cho rằng nỗi lo thất nghiệp của sinh viên công nghệ sinh học phần lớn đến từ tư duy bị động. Ứng viên nổi bật không phải là người có điểm trung bình tích lũy cao nhất mà là người thể hiện được khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn.

Ông Tùng nhấn mạnh sự ‘kén chọn’ của doanh nghiệp nằm ở kỹ năng thực tiễn. Sinh viên cần chủ động tìm kiếm cơ hội thực tập, tham gia các dự án nghiên cứu hoặc tự thực hiện các thí nghiệm nhỏ. Việc biết vận hành một hệ thống lên men, kỹ thuật phân lập và định danh vi khuẩn, hay cách phân tích kết quả xét nghiệm có giá trị hơn rất nhiều so với một bảng điểm ‘đỏ chói’.

Theo ông Tùng, sinh viên cần thay đổi góc nhìn từ bị động sang chủ động, hoạch định kế hoạch học tập và hành động cụ thể để đáp ứng nhu cầu thực tế. Cánh cửa cơ hội của ngành Công nghệ sinh học rất rộng, nhưng không tự động mở ra cho mọi người. Nó mở ra cho những ai chủ động trang bị kiến thức nền tảng vững chắc, kỹ năng thực hành thành thạo, tư duy liên ngành, đặc biệt với công nghệ thông tin và dữ liệu, cùng khả năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề, làm việc nhóm.

Tóm lại, ngành Công nghệ sinh học đang bước vào kỷ nguyên số với tốc độ phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Sinh viên và người lao động trong ngành cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.

]]>